Mạ hóa nickel, những câu hỏi thường gặp

Hotline:

0707 606 099

Xi Mạ Kim Loại Thành Dương

Mạ hóa nickel, những câu hỏi thường gặp
09/09/2024 04:27 PM 44 Lượt xem

    Trở lại bài viết này, em đã viết 4 bài về mạ hóa nickel và đây cũng là chủ đề em nhận được nhiều sự quan tâm từ anh chị em nhất. Ứng dụng của mạ hóa nickel rất đa dạng, có thể từ đơn giản bảo vệ chống ăn mòn cho bu lông, ống vít tới mạ trên các bản mạch điện tử, chips. Vì vậy, trong bài viết này, em thêm một bài để tổng hợp lại một số câu hỏi thường liên quan tới mạ hóa nickel, để anh chị em khác có thể tham khảo thêm. Link của 4 bài viết cũ, em sẽ đặt ở dưới bài viết này.
     
    1. Khả năng chống ăn mòn của lớp mạ hóa nickel?
    Về mặt lý thuyết, lớp mạ hóa Ni-P có khả năng chống ăn mòn khá tốt, lớp phủ trên nền thép carbon có độ chống ăn mòn có thể đạt ngang với thép tiêu chuẩn SUS 304/316. Tuy nhiên, ở Việt Nam anh chị em thường gặp là khả năng chống chịu ăn mòn cho nền của lớp mạ hóa nickel rất kém, thậm chí test phun sương muối không đạt nổi 12h, trong khi tiêu chuẩn thường yêu cầu tối thiểu đối với lớp mạ hóa dày 3-5 micromet là 72h. Những lý do có thể dẫn tới việc chống ăn mòn kém có thể như sau:
     
    - Lớp mạ chứa nhiều tạp chất. Các tạp chất kim loại như Fe, Cu làm giảm khả năng chống ăn mòn của lớp mạ Ni. Tạp chất này có thể xuất phát từ nhiều nguồn, chủ yếu là do hóa chất sử dụng để pha chế hay do nguồn nước pha chế kém tinh khiết. Các loại tạp này thường làm giảm, nhưng không quá lớn tới khả năng chống ăn mòn, ví dụ như test ăn mòn có thể giảm từ 72h xuống 50-60h, chứ khó có thể giảm sâu xuống tới 12h.
     
    - Hàm lượng P thấp. Với lớp mạ Ni hóa sử dụng NaH2PO2 làm chất khử thì luôn có một hàm lượng P nhất định được khử cùng lớp mạ Ni. Hàm lượng P ảnh hưởng khá nhiều tới khả năng chống ăn mòn, tuy nhiên, cũng không quá lớn tới mức test phun sương muối chỉ đạt 12h. Hàm lượng P trong lớp mạ càng cao thì khả năng chống ăn mòn càng tốt.  
     
    - Do bước tiền xử lý bề mặt không tốt. Đây có thể là một nguyên nhân lớn dẫn tới khả năng bảo vệ kém của lớp mạ hóa nickel. Vấn đề chủ yếu nằm ở bước tẩy dầu mỡ hay etching bề mặt không tốt, dẫn tới lớp mạ hóa chứa nhiều các khuyết tật nhỏ, làm giảm độ bóng và giảm đáng kể khả năng chống ăn mòn.
     
    - Do phụ gia sử dụng trong dung dịch. Do tiêu chuẩn RoHS giới hạn về nồng độ các kim loại nặng, thường sử dụng trong các hệ chất ổn định, hoặc một số lĩnh vực yêu cầu Pb2+-free nên các hợp chất chứa nhóm thio (SH) thường được sử dụng thay thế. Trong quá trình mạ, một làm lượng S nhất định sẽ bị phân hủy, kết tủa với lớp mạ. Tùy vào nồng độ và loại chất ổn định sử dụng mà lượng S kết tủa khác nhau. Nhưng hàm lượng S ảnh hưởng rất lớn tới khả năng chống ăn mòn của lớp mạ. Lớp mạ nhanh chóng bị đen khi phun sương muối hay đặc biệt, phun/nhúng trong môi trường acid. Ngoài việc ảnh hưởng bởi chất ổn định, các chất tạo bóng, chất chống hình thành vi lỗ cũng quan trọng trong việc tăng khả năng chống ăn mòn của lớp mạ hóa Ni. Các lỗ này có thể không quan sát được bằng mắt thường, nhưng sẽ là các điểm khuyết tật để ăn mòn tấn công.
    Tóm lại, hai nguyên nhân lớn nhất dẫn tới khả năng chống ăn mòn kém xuất phát từ chính bản thân bể mạ hoặc do bước tiền xử lý không đủ tốt, nó cũng có thể kết hợp với các nguyên nhân khác, làm giảm đáng kể khả năng bảo vệ chống ăn mòn của lớp mạ hóa nickel.
     
    2. Lớp mạ bị lốm đốm/đổi màu theo thời gian?
    Về bản chất, nickel mạ điện hay mạ hóa đều có lớp oxide khá bền, che cho phủ nền khỏi bị tấn công bởi môi trường. Việc lớp mạ bị đổi màu, có thể do sự ăn mòn xảy ra tại các vị trí có khuyết tật, hoặc những vị trí có hàm lượng S/tạp chất kết tủa cao sẽ dễ bị ăn mòn hơn (thế khử chuẩn của Ni-S thấp hơn của Ni-P dẫn tới Ni-S sẽ trở thành pha anode bị ăn mòn tấn công). Nếu gặp trường hợp này, tốt nhất nên thử thay thế dung dịch mạ hoặc thay thế nhà cung cấp khác, bởi nguyên nhân dẫn tới hiện tượng trên thường xuất phát từ chính bản thân của dung dịch mạ.
     
    3. Lớp phủ post-treatment sau mạ hóa có cần thiết hay không?
    Lớp mạ hóa nickel xong, hoặc là chỉ rửa sạch rồi làm khô. Hoặc là, thêm một bước post-treatment trong dung dịch chromate. Tuy nhiên, ở Hàn Quốc phần lớn các công ty không sử dụng bước post treatment bởi nó gần như không mang hiệu quả đáng kể gì cho việc chống ăn mòn hay chống xỉn màu. Thậm chí, các lớp mạ chứa hàm lượng S cao có thể bị ố màu sau bước chromate này. Vì vậy, bên công ty em cũng khuyến cáo khách hàng không cần thiết sử dụng post-treatment sau quá trình mạ hóa nickel.
     
    4. Bể mạ cho tốc độ mạ thấp?
    Nếu là tốc độ mạ thấp do thiết kế dung dịch bởi công ty cung cấp thì chịu. Còn lại, nếu trong quá trình vận hành mà tốc độ mạ thấp thì có các lý do chính như: (1) do pH dung dịch giảm; (2) Do lượng chất bổ sung chưa đạt; (3) Do nhiệt độ mạ thấp; (4) Do các phụ gia mất cân bằng.
     
    Trong dung dịch mạ hóa, luôn có một nhóm chất có xu hướng làm tăng tốc độ mạ và một nhóm có xu hướng kìm hãm tốc độ mạ. Nhóm tăng tốc độ mạ thường là các dung dịch đệm như acetate, succinate hoặc các nhóm chứa amine (NH3). Chất ổn định cũng vậy, nhóm chứa gốc thio (SH) có khả năng tăng tốc độ mạ tốt và nhóm kim loại nặng có xu hướng kìm hãm tốc độ mạ (Pb2+). Nhóm gây kìm hãm, khi vượt ngưỡng giới hạn làm tốc độ mạ giảm rất mạnh. Vì vậy, khi vận hành, việc bổ sung một thành phần nào đó chứa nhóm kìm hãm tốc độ bị vượt ngưỡng cho phép đều có thể làm giảm đáng kể tốc độ mạ. Khi dung dịch sử dụng lâu (trải qua nhiều MTO) thì khối lượng riêng dung dịch sẽ tăng dần, làm tốc độ di chuyển các ions giảm xuống, cũng làm giảm tốc độ mạ. 
     
    5. Độ bóng của lớp mạ?
    Lớp mạ hóa nickel thông thường có độ bóng trung bình, không bóng gương. Một số kim loại khi sử dụng làm chất ổn định cho dung dịch mạ hóa có thể cho lớp mạ bóng gương, đặc biệt là Tl+, Cd2+, Hg2+. Hiện nay, theo như tiêu chuẩn RoHS thì các kim loại nặng không còn được sử dụng làm chất tạo bóng, nên những kim loại nặng hầu như không còn được sử dụng. Vì vậy, hoặc là cứ giữ nguyên độ bóng như của lớp mạ hóa nickel căn bản, hoặc là, các công ty có nghiên cứu tìm ra các chất tạo bóng hệ hữu cơ khác. Việc sử dụng các chất tạo bóng hữu cơ cũng cho lớp mạ có độ bóng rất cao, tuy nhiên, lựa chọn chất nào và nồng độ bao nhiêu thì đều theo kinh nghiệm của mỗi công ty, em cũng không tìm thấy các papers hay patents về nhóm chất này. Vì vậy, nếu muốn có các lớp mạ hóa nickel có độ bóng cao cần sự tư vấn và tham khảo các sản phẩm của các công ty khác nhau.
     
    6. Độ cứng của lớp mạ và hàm lượng P?
    Hàm lượng P ảnh hưởng tới độ cứng của lớp mạ hóa Ni. P thấp thì độ cứng cao và khi P tăng lên thì độ cứng giảm. Với lớp mạ nickel hóa có hàm lượng P trung bình 6~10% thì độ cứng tối thiểu phải đạt khoảng 650 HV. Với lớp mạ low P (P<5%) thì độ cứng phải đạt trên 750 HV và sau xử lý nhiệt có thể đạt trên 1100 HV.
    Hàm lượng P trong lớp mạ hóa có thể thay đổi bởi (1) pH của dung dịch. pH tăng thì P% giảm, và ngược lại; (2) Loại phức chất sử dụng, việc này do việc các công ty nghiên cứu và lựa chọn; (3) do nồng độ NaH2PO2, khi nồng độ tăng thì P tăng và ngược lại. Tuy nhiên, hiếm dung dịch thương mại sử dụng NaH2PO2 lớn hơn 35 g/L vì khi đó dung dịch có độ ổn định kém. Vậy nên, nếu anh chị em muốn tăng P để tăng cường khả năng chống ăn mòn mà không muốn thay đổi dung dịch, có thể lựa chọn phương án (1) hoặc (3) bên trên.
     
    7. Tốc độ mạ khác nhau ở các giá trị loading factor khác nhau?
    Như bên trên, em có trình bày về các nhóm chất trong bể mạ có khả năng tăng tốc độ phản ứng mạ, hoặc kìm hãm phản ứng mạ. Với nhóm chất chứa SH, tăng tốc độ mạ đáng kể khi nó sử dụng khoảng 1-2 ppm. Tuy nhiên, nó bị phân hủy rất nhanh, kết tủa theo lớp mạ, giảm nồng độ trong bể mạ xuống dải ổn định khoảng 0.3~0.5 ppm. Vì vậy, khi giá trị loading factor đủ lớn thì sự khác biệt do chất ổn định này không đáng kể, tuy nhiên, với giá trị loading rất nhỏ, cỡ 0.01 dm2/L thì tốc độ mạ cao đột biến, do tác dụng của các nhóm SH khi mà nồng độ của nó chưa được duy trì về mức ổn định. Khi loading factor đủ lớn thì sẽ cho tốc độ mạ ổn định. 
     
    8. Bể mạ bổ sung tự động thấy tốc độ lên MTO (Metal Turn Over) không đều, lúc nhanh lúc chậm?
    Vấn đề này trước đây em không hề biết, vì bên em thường phân tích nồng độ nickel bằng tay, sử dụng chuẩn độ nồng độ nickel trong dung dịch đệm NH3 bằng EDTA, sử dụng MX (Murexide) làm chất chỉ thị, khi dung dịch đổi từ màu nâu vàng sang màu tím. Từ kết quả phân tích để tính ra lượng Ni2+ cần bổ sung. Tuy nhiên, em được biết ở Việt Nam nhiều công ty sử dụng máy tự động phân tích nồng độ và bổ sung, sau đó tự đếm MTO. Em có tìm hiểu về máy đo nồng độ nickel online, nguyên lý làm việc dựa trên sự hấp phụ phổ UV-vis và định luật Lambert-Beer (dựa trên hiện tượng hấp thụ bức xạ điện từ của một dung dịch). Có một vài nguyên nhân có thể dẫn tới sai số trong máy đo online này như phần em trình bày sau đây. Trong dung dịch, một vài phân tử ligan L sẽ thay thế phân tử nước, trở thành dạng phức kiểu [Ni(H2O)5L]+, ở đó ligan L có thể là các loại chất tạo phức/càng/đệm hay NH3. Độ mạnh, yếu hay việc phân ly của phức trên phụ thuộc vào nhiệt độ và pH của dung dịch. Vì vậy, trên máy đo online sẽ có sự kết hợp của các cảm biến: nhiệt độ, pH và UV-Vis. Tuy nhiên, cả pH và hằng số phân ly của các phức đều phụ thuộc vào nhiệt độ dẫn đến, việc loại hình thành và tỷ lệ các phức cũng thay đổi theo, dẫn đến, độ hấp phụ sóng uv-vis cũng thay đổi. Vì vậy, giá trị pH, nồng độ nickel đo được bằng máy ở các giá trị nhiệt độ vận hành khác nhau bị khác nhau (quan sát bằng mắt thường thì màu của dung dịch thay đổi khá nhiều ở nhiệt độ khác nhau và ở MTO khác nhau). Ngoài ra, sau một quá trình mạ, việc bổ sung các dung dịch làm cho các ion như HPO32-, SO42-, Na+ tăng lên, tăng khối lượng riêng của dung dịch lên 10-20% làm thay đổi đáng kể sự hấp phụ tia UV-vis, do đó, có thể dẫn tới sai số của phép đo bằng máy. 
     
    9. Khi nào phải thay bể mạ mới?
    Về mặt lý thuyết, bể mạ hóa nickel có thể chạy được khoảng 10-12 MTOs. Tuy nhiên, trong công nghiệp thường dừng lại ở khoảng 5-6 MTOs, cho dù, lúc đó bể mạ vẫn cho tốc độ mạ ổn và chưa bị phá hủy. Trong quá trình mạ, việc bổ sung NiSO4, NaH2PO2, NaOH... trong khi sản phẩm mạ chỉ là Ni kim loại, vì vậy, các ions bổ sung và ions sinh ra từ quá trình mạ như SO43-, H2PO3-, Na+ làm khối lượng riêng bể mạ tăng dần theo thời gian. Khi khối lượng riêng đạt khoảng 1.15 g/cm3, bể mạ nên được thay mới, bởi nó cản trở tốc độ di chuyển của các ions trong quá trình mạ, làm lớp tốc độ mạ chậm dần, lớp mạ bị xốp/nhiều khuyết tật, dẫn tới khả năng bảo vệ chống ăn mòn bị giảm đáng kể. Có một vài nghiên cứu chỉ ra rằng, có bể mạ hóa Ni sau 5 MTOs thì khả năng chống ăn mòn có thể giảm từ 72h xuống còn thấp hơn 24h. Cũng có nhiều nghiên cứu sử dụng CaSO4 để kết tủa H2PO3- ra khỏi dung dịch mạ hóa Ni, để dung dịch có thể vận hành được tới 14 MTOs, nhưng không thấy được sử dụng trong công nghiệp, có thể do chi phí/vận hành hoặc chất lượng lớp mạ không đủ tốt sau khi dung dịch được xử lý.  
     
    10. Lớp mạ bị dỗ/sần sùi?
    Hiện tượng dỗ chủ yếu do bước tiền xử lý không tốt, đặc biệt là bước tẩy dầu mỡ. Ngoài ra, dung dịch mạ lâu, trải qua nhiều MTO cũng bị giảm chất lượng, hoặc do các tạp hữu cơ nhiễm vào bể mạ hóa. Thường thì khi gặp các hiện tượng này, cách tốt nhất là nên thay thế bằng dung dịch mới, không nên cố xử lý để tái sử dụng dung dịch mạ cũ. Còn lớp mạ bị sần sùi, chủ yếu do các tạp dạng hạt lớn có mặt trong dung dịch. Vì vậy, cần lọc liên tục, hoặc có thể là thay dung dịch mới.
     
    11. Lớp mạ bị dộp?
    Dộp thường do 2 nguyên nhân, thứ nhất là do lớp mạ có ứng suất nội quá cao dẫn tới việc bong, dộp hay vỡ trên bề mặt. Lớp mạ ở pH cao, nồng độ NaH2PO2 cao đều dễ bị dộp. Nguyên nhân thứ 2, do bám dính với lớp mạ trước đó không tốt, thường xảy ra khi mạ nhiều lớp hoặc mạ trên các nền hoạt động mạnh, như Al mà chưa được xử lý zincate tốt dẫn tới dộp do bọt khí chứa bên trong. Với việc mạ nhiều lớp mà bị bong dộp nên phân tích xem dộp xuất phát từ lớp nào, từ đó thay thế hoặc cải tiến lớp mạ đó. 
     
    12. Các tiêu chuẩn thường sử dụng để đánh giá lớp mạ hóa Ni
    Lớp mạ hóa nickel cần đánh giá những tiêu chuẩn nào thì tùy thuộc vào mục đích và ứng dụng. Nhưng về căn bản thường đánh giá các tiêu chuẩn như: Quan sát bề mặt: độ bóng hay các điểm khiếm khuyết; đo độ dày lớp mạ, khả năng chống ăn mòn bằng phun sương muối/acid, chống ăn mòn trong môi trường nóng ẩm (humidity test), hàm lượng P%, độ cứng; Với các ứng dụng cho mạch PCB/FPCB thì quan trọng nhất là khả năng phản ứng trao đổi ion với vàng (quy trình ENIG), khả năng chống hình thành các vùng ăn mòn sâu (black pads), độ dẻo (cho mạch FPCB), khả năng bảo vệ sự khuếch tán của lớp Cu ra ngoài; với lớp mạ lót cho quy trình POP thì quan trọng là khả năng mạ đồng đều trên bề mặt, điện trở của lớp mạ... 
    Zalo
    Hotline